Saturday, February 27, 2021

Truyện ngắn: ĐÂU ĐÓ CÒN MỘT CUỘC HẸN HÒ - Lê Nam Phương tức thi sĩ Lê Văn Trung

 

ĐÂU ĐÓ CÒN MỘT CUỘC HẸN HÒ

        Lê Nam Phương (Lê văn Trung)                      

https://www.youtube.com/watch?v=fVhkjIHvtQo&t=179s
Hồi Ký Miền Nam
SUBSCRIBEDGiọng đọc : Tài

Sống là sự lặp đi lặp lại những hành vi nhàm chán vừa vô thức vừa có ý thức, tất cả và những quán tính vừa chảy vừa ngưng đọng. Sáng nào cũng vậy, khi đang vừa làm vừa đi lên đi xuống loay hoay với những công việc đơn điệu, nhuốm cái bếp lò bằng than tổ ong và bắc một ấm nước. Trong khi chờ nước sôi, cô cho cà phê vào mấy cái phin nhôm cũ kỷ, dọn dẹp mấy bộ bàn ghế, chải lại mái tóc, bôi vội tí phấn, thoa tí son, xịt tí nước hoa vào sau gáy, trút bỏ vội bộ áo ngủ, mang vội cái váy màu đen sau khi đã vội vàng cài xong áo ngực, đưa tay nâng nâng hai bầu vú vừa đến bên dàn VCD vội mở một đĩa nhạc như mọi ngày.  Lời ca bắt đầu vang lên nhè nhẹ “một người ngồi bên kia sông im nghe …” và đến bên quầy ngồi bất động vào chiếc ghế, mắt nhìn ra khoảng sân phía trước, bóng một người đàn ông mái tóc bồng bềnh ướt sương, mặc một chiếc áo da cũ mềm nhàu bẩn.  Ông bước vào phòng như người mộng du, đến ngồi một chỗ cố định, không nhìn nàng:

-        Hai đen không đường, hai con mèo.

Thực ra thì không phải đợi ông gọi, vì đã quen từ lâu, nàng luôn để sẵn đấy từ trước khi ông vào, hai cái cà phê phin đen và hai điếu con mèo trên bàn. Ông ngồi vào, dù ngày nào cũng thấy vậy nhưng ông vẫn lên tiếng gọi trước khi nhón tay lấy một điếu thuốc và châm lửa nhả khói vào không gian ẩm lạnh của sớm mai.

Lần đầu tiên nàng hơi ngạc nhiên về hành vi này của người đàn ông, hai tách cà phê và hai điếu thuốc, nhưng chỉ dùng một, lại trả tiền cả hai, có một lần nàng hỏi khi ông đứng lên. 

-        Cà phê của ông còn đấy.

-        Để đấy, cô ấy sẽ đến.

Lần đó, nàng chờ đợi thật, nhưng cuối ngày người phụ nữ vẫn không thấy đến để uống ly cà phê nguội đang chờ. Những ngày kế tiếp cũng vậy.  Và thế là nàng cũng mơ hồ hiểu ra.  Chưa bao giờ người đàn ông ngày hôm sau trở lại quán lại hỏi nàng về người phụ nữa mà ông ta chờ đợi có đến không. Sáng nào cũng vậy, ông bước vào quán như thể lần đầu tiên và duy nhất. Ông không nhớ ngày hôm qua.  Nhưng ông lặp lại y ngày hôm qua.  Với ông, thời gian không chảy, không gian không đổi thay. Vật và người không đổi thay. Một vuông sân gạch lạnh sương.  Bộ bàn ghế đen nhẩy.  Hai tách cà phê đen, hai điếu thuốc con mèo.  Cô chủ quán tư lự trong cái áo màu đen. Tiếng hát buồn, nhẹ “một người ngồi đây trông mưa …”.  Ông ngồi suốt hơn một tiếng đồng hồ, nhấm nháp từng tí cà phê, lặng lẽ, ông không quan tâm đến chung quanh. Những người thợ xây với những bộ áo quần công nhân đã bạc bám đầy hồ vữa và nước sơn, ồn ả bước vào quán, vài cô gái cần tiền, son phấn nhòe nhoẹt uể oải, ngái ngủ ngồi yên tận trong góc tối của quán nhả khói thuốc mù mịt.  Không ai để ý đến ông, suốt gần nửa năm nay họ đã quen thuộc đến dững dưng hình ảnh ông.

Chỉ có cô chủ quán là cố hờ hững để ý đến ông, vì mình cô là người thấp thỏm chờ đợi người phụ nữ xa lạ nào đó sẽ đến để hóa giải những bí ẩn bọc quanh vẻ bụi bậm phong trần nơi người đàn ông với vẻ mặt xa xăm và đôi mắt như đang cháy âm ỉ những bi thương.  Nhìn vào đôi mắt ông, cô thấy như bị hụt hơi trong những đam mê của thứ dục vọng vừa thanh khiết vừa tục lụy, những tiếc nuối vừa xót xa vừa êm dịu và thật sâu trong đôi mắt đó là một nỗi đợi chờ vô vọng.

-        Hai đen không đường, hai con mèo.

-        “Một người ngồi bên ni sông im nghe nước chảy về đâu…

-        Nước sôi ùng ục nơi bếp lò.

Đó là sự-sống-còn-đang-sống, nhưng cái “còn-đang-sống” đó cứ lặp đi lặp lại một sớm mai nhàm chán và buồn tẻ như thế giới “còn-đang-sống” đó nằm-trong-cõi-chết.  Bất chợt cô đưa tay áp lên hai bầu vú đang căng dưới làn vải áo lót, nhìn người đàn ông ngồi lặng lẽ, xa xăm.  Và chỉ lúc ấy nhịp đập nhè nhẹ của trái tim, nhịp đập của sự sống, mới len vào trong cô một nỗi hoài nhớ không màu của quá khứ nhòe nhoẹt nước-mắt-hạnh-phúc-đớn-đau của nguồn đam mê cháy bỏng.

Người phụ nữa đó là ai mà người đàn ông kỳ lạ này đang đợi chờ, nét đợi chờ lãng quên về một cuộc hẹn hò xa lắc tự kiếp nào. Nỗi đợi chờ đó đã gieo vào lòng cô niềm quạnh hiu vừa dịu ngọt vừa đắng cay và cô cũng cảm thấy rưng rưng trong lòng. Nỗi chờ đợi lao xao của bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua buồn tẻ và đơn điệu.

-        Hai đen không đường, hai con mèo.

Tiếng nói ấy lại vang lên lạc lõng giữa không gian ẩm ướt mỗi sớm mai sương mù, nơi cái góc cố định ấy, người đàn ông đã ngồi vào và đôi mắt xa vắng ấy, cô cảm thấy lành lạnh, đang nhìn vào cơ thể cô như sự bắt gặp của xúc cảm ái ân lần đầu cô cảm nhận được.

*

*   *

Khi ông trở về dù mọi việc không còn như cũ nữa, căn hộ tầng 2 của dãy nhà chung đã có chủ mới.  Hỏi ra mới biết dãy nhà này đã được tiếp quản như một tài sản của nhà nước. Vợ con ông và những người láng giềng cũ phải rời bỏ nơi đây.  Không biết họ đi đâu, vợ con ông cũng vậy. Sau khi hỏi một đôi câu với người phụ nữ chủ mới của căn hộ mà không biết thêm gì, ông thẩn thờ bước xuống đường đi dọc theo hàng cây long nảo về hướng bờ sông.

Chưa bao giờ ông có cái cảm giác rỗng không như bấy giờ. Và cũng chưa bao giờ ông thấy đời mình lại ứng với một câu thơ của một nhà thơ nào đó: “Tình không – không cửa – không nhà”.  Mười năm trong cái “lò luyện tội hiện tại”, ông cảm thấy được cái vô lý của đời người.  Ai đó đã hay nói rằng “cái gì cũng có lý do của nó”.  Trong tình huống này ông cảm thấy “cái lý do” của nó là ở chỗ nào.

Cũng như không hiểu gì đâu ông lại ở đây và hằng ngày, từ rất sớm ngồi vào một chỗ cố định ở quán cà phê này.  Cô chủ quán đã rời khỏi chiếc ghế sau quầy đi đâu đó, để lại một khoảng trống đìu hiu, Tự dưng ông cảm thấy như vừa mất một cái gì và hình bóng của nàng nhạt nhòa xa vắng trong chốn lãng quên, lẫn lộn hình ảnh những chiếc xe lôi và những người phu xe một ngày xa xôi nào đó ở bến Ninh Kiều.

Có một điều kỳ lạ mà thỉnh thoảng ông thoáng nghĩ qua, có lẽ là trong những giây phút hiếm hoi tĩnh táo, là ông đang ngồi đây để chờ trông như đã từng ngồi ở một quán cà phê nào đó cách nay gần ba mươi năm. “Ba mươi năm như một tiếng thở dài”.  Ông ngồi đây để chờ nàng, như đã từng ngồi chờ nàng trong văn phòng bề bộn giấy báo, mực in ở tòa soạn trên đường Lê Thánh Tôn sau cái tết Mậu Thân kinh hoàng.  Và ông đã vội vã đi mà không gặp được nàng.  Chỉ một tích tắc kẻ chờ đợi bước đi và một tích tắc sau đó người hẹn đến đã đến. Định mệnh khắc nghiệt và trớ trêu đã biến cái tích tắc đó thành muôn trùng. Hơn ba mươi năm rồi từ cái giây phút đó. Ba mươi năm với bao biến động trong cõi nhân sinh đầy ắp tai ương hoạn nạn, ông đã đi qua cõi đời mình bằng những ghập ghềnh khúc khuỷu, qua bao đao binh khói lửa hận thù không rõ mặt, gặp quá nhiều những mảnh đời rách nát, những cảnh đời ly tan.  Nhưng tuyệt nhiên không bao giờ gặp nàng.  Nàng ở đâu, về đâu trong những trôi giạt triền miên của một đất nước không bình yên, của một dân tộc tan rã phân lìa.  Có nhiều khi ông muốn bơi ngược dòng sông bão lũ, băng qua rừng núi thâm u đầy thú dữ, để trở về, để tìm gặp, để xác định con người còn có cái gì đó cao quý hơn, cần thiết hơn, trở về để yêu thương, trở về để gặp nàng.  Nhưng dòng nước hung bạo, rừng núi giăng đầy cạm bẫy, kẻ chắn giữ con đường trở về đi bằng hai chân nhả từng ngôn ngữ của đạn bom, của học thuyết. Chúng trấn giữ mọi nẽo về. Chúng giương cao những nanh vuốt bằng những lừa mị, bằng những hăm dọa. Ông đã gặp trên dòng chảy đầy tai ương và xương máu đó những đớn đau cùng khốn của kiếp người. Xác chết không người chôn, những người thân yêu cúi đầu giữ lại giọt nước mắt rồi buông xuôi trôi theo dòng hoạn nạn.  Bé thơ lạc mẹ giữa cuồn cuộn sóng người, giẫm đạp chạy đi không phương hướng, tiếng khóc chìm khuất trong tiếng gầm rít của đạn bom, của những tiếng thét hãi hùng.  Ông đã gặp người phụ nữ áo quần rách tả tơi địu xác con bầm khô đứng lại bên đường, đôi mắt vô hồn ngước nhìn trời cao, miệng lâm râm khẩn cầu.  Thượng đế ở đâu?  Ông đã gặp người đàn ông mặt mày ngang dọc những vết chém còn tươm máu, cố lách ngược dòng người, miệng gào lên vô vọng: “Vợ con tôi đâu?” Và xòe hai bàn tay có dòng chữ ghi vội vã: “Chúng nó giết sạch”. Trong cái dòng lũ người đó không có nàng.  Ông ngơ ngác kiếm tìm như tìm một bóng ma trên con đường hủy diệt.  Con đường hủy diệt đó sau một thời gian bừng bừng lửa hận rồi chùng xuống vì hình như máu và nước mắt đã ngập tràn, nhưng bên trong sự chùng xuống lặng im đó là một bóng đêm vô tận. Mặt trời ở đâu?

“Ba mươi năm như một tiếng thở dài”, ông đọc được câu thơ này ở đâu đó như đọc một lời kinh nguyện. Tiếng thở dài không buông được ra mà trôi ngược vào lòng rồi đọng lại ở đó như một khối u. Ba mươi năm khối u đủ sức tàn phá linh hồn ông, hủy diệt trí não ông để bây giờ ông trở thành kẻ xa lạ với chính bản thân mình. Mọi người thường gặp trong quán cà phê này đều gọi ông với một cái tên tội nghiệp: Người đàn ông tâm thần.

Cô chủ quán đôi khi bỗng xao xuyến, bắt gặp cái nhìn hun hút của ông, đôi mắt và cái nhìn đó cô đã gặp đâu đó của một thời quá vãng xa xôi.

Nhưng hôm nay cô đã ngồi lặng đi sau quầy và chờ đợi.  Mặt trời đã lên cao xua tan làn sương mỏng, ánh nắng rọi vào quán, mấp máy trên mặt bàn nơi người đàn ông thường ngồi.  Hai tách cà phê nguội lạnh và hai điếu thuốc nằm im lặng trong chiếc đĩa nhựa nhỏ đang chờ đợi, vẫn chưa thấy ông đến.

Rồi ngày này hôm sau, rồi tiếp những ngày hôm sau nữa, người đàn ông ấy đã không đến. Sáng nào cô cũng đem hai tách cà phê và đặt vào bàn với hai điếu thuốc. Cô làm việc này như người thân hằng ngày cúng cơm cho người mới mất dù trong tận lòng mình cô vẫn hy vọng một ngày kia ông sẽ trở lại, ngồi vào chỗ cố định và gọi hai tách cà phê.


*

*  *

Chiếc xe du lịch màu đen đổ vội bên đường, phía đối diện với quán cà phê.  Người phụ nữ trạc ngoài năm mươi mở cửa bước xuống xe. Chiếc mủ vải kiểu cách màu xám với những hoa văn vàng thắm, che kín đôi mắt với vành mũ chập chờn theo từng bước chân như những cánh bướm.  Khuôn mặt trắng và xanh xao sáng lên trong màu đen của chiếc váy.  Tay bà cầm một tờ báo, chần chừ chưa băng qua đường.  Bà hướng nhìn về phía quán cà phê, bắt gặp cái nhìn tò mò và buồn bã của cô chủ quán đang ngồi sau quầy.

Cuối cùng như xác định được nơi cần đến, bà nhìn vội hai bên và băng qua đường, bước thẳng vào trong quán. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt bà và bà quá đổi ngạc nhiên, vừa mừng, vừa nghi ngại, vừa ngậm ngùi: nơi chiếc bàn chưa có ai ngồi, trên bàn là hai tách cà phê với hai điếu thuốc để trong cái đĩa nhựa nhỏ.

Bà chần chừ một lát rồi ngồi vào chiếc ghế kê sát vách bên chiếc bàn ấy.  Bà nhìn cô chủ quán:

-        Cô ơi tôi có thể ngồi đây được không?

-        Vâng, xin bà tự nhiên.

Bà nhìn hai tách cà phê.

-        Nhưng có ai đang ngồi đây phải không cô?

-        Vâng, nhưng xin bà cứ tự nhiên.  Bà có dùng cà phê không ạ?

-        Vâng.  Cho tôi một tách đen không đường.

Lần này thì cô chủ quán ngạc nhiên.  Có lẽ nào người phụ nữ mà ông ấy chờ là đây?

Tự dưng người đàn bà đứng lên tiến về phía quầy, trên tay vẫn cầm tờ báo.  Bà chìa tờ báo ra trước cô chủ quán.

-        Thưa cô, chúng ta có thể trò chuyện với nhau một tí không ạ?

-        Vâng, thưa bà.

-        Hy vọng cô biết người này.

Bà chỉ vào hình người đàn ông trên trang báo.  Cô nhìn vào và thoáng chút bối rối.  Bên trên bức hình là tựa đề: “Cái chết bí ẩn của một người đàn ông không rõ danh tính”.

Cô thầm nghĩ: “Có phải ông ta không nhỉ?”

Người đàn bà gấp tờ báo lại:

-        Tình cờ tôi đọc bài báo này cách nay non một tuần và cứ đinh ninh rằng chính là ông ấy. Nhưng còn thoáng chút nghi ngờ, nên, cũng qua bài báo, tôi tìm được đến đây. Thực ra thì người phóng viên này cũng khó có thông tin chính xác về “ông ấy”.  Từ cuốn nhật ký đó đã mở ra cho bài viết của phóng viên những thông tin tương đối và có vẽ tấm hình người đàn ông được báo chụp lại.

Người đàn bà đưa tờ báo cho cô chủ quán: Tấm hình dán trong cuốn nhật ký.

-        Chúng ta đến chiếc bàn kia vừa uống cà phê vừa trò chuyện, cô nhé.

Người phụ nữ trải tờ báo lên mặt bàn rồi bưng tách cà phê nhấm một tí.

-        Thực ra xa cách nhau lâu quá, bức hình này không hoàn toàn giống ông ấy, nhưng những nét đặc biệt như khuôn mặt và nhất là đôi mắt thì …

Cô chủ quán nhìn kỹ bức hình và đọc lướt qua bài báo.  Bức hình không giống mấy người đàn ông tâm thần, nhưng những chi tiết tường thuật và nhất là những đoạn trích nhật ký thì …

-        Thưa bà, tôi nghĩ bà có nhầm gì không.  Người đàn ông thường đến đây mỗi buổi sáng, ngồi vào chỗ này, gọi hai tách cà phê không đường và hai điếu thuốc con mèo, người đàn ông đó không mấy giống với người trong bức hình này.

-        Nhưng…

-        Vâng, những chi tiết được viết trong bài báo này gần như đúng hoàn toàn về ông ấy.

-        Nhưng cô có lúc nào trò chuyên hay….?

-        Ông ta lầm lì, u mặc, không trò chuyện với ai, gần như im lặng hoàn toàn.  Nhưng tôi cũng nghe vài người bàn tán về ông. Người ta cho rằng ông bị tâm thần và mắc chứng trầm uất.  Ông ngồi ở đây nhưng tôi có cảm giác ông đang ngồi ở đâu đó xa lắm, vào một thời quá vãng xa xôi nào.  Hình như ông đang chờ đợi một người nào, một người của một quá khứ mù mờ.

Người đàn bà nhớ lại cách nay gần ba mươi năm, cuộc hẹn hò không thành vì chiến trận bỗng bừng ra dữ dội, bà bị đẩy vào dòng chảy hỗn loạn của năm nào, hàng ngàn con người tơi tả, đói khát.

-        Tôi đã hẹn với ông ấy, nhưng không bao giờ gặp được.  Tôi biết ông ấy cũng bị trôi theo dòng chảy cuồng bạo của chiến tranh, chúng tôi không gặp nhau từ đấy. Tôi tin người đàn ông thường đến đây là ông ấy, cô ạ. Ba mươi năm ông đi tìm một cuộc hẹn hò.

Người đàn bà ân cần nắm tay cô chủ quán.

-        Có khi nào cô nghe ông ấy nhắc đến tên một ai đó không?

-        Dạ không.  À, mà hình như có đôi lúc ông ta lẩm bẩm một cái tên nào đó, tôi không nghe rõ.

-        Thưa cô, đúng là ông ấy rồi, người mà không gặp cách đây ba mươi năm, người ấy là…, là tôi đây.  Trời ơi, tội nghiệp ông ấy quá. 

*

*   * 

Hai người nữ đang trầm tư trong một không khí chùng lắng, không để ý đến một người đàn ông đã đến sát bên.  Bóng ông đổ xuống tạo một khoảng tối nhàn nhạt. Đến khi ông xê dịch chiếc ghế gây một tiếng động nhỏ, hai người phụ nữ mới giật mình nhìn lên. Cô chủ quán kinh ngạc đến suýt nữa bật ngửa ra, cô ú ớ trong miệng một lát không thành tiếng.

Người đàn bà chỉ hơi nghiêng người và tỏ ý xin lỗi đã ngồi vào chỗ này.  Người đàn ông chẳng nói gì, ông im lặng ngồi xuống, lấy điếu thuốc trên chiếc đĩa nhựa và châm hút. Ông nhìn cô chủ quán, rồi nhìn người đàn bà:

-        Xin lỗi.

Người đàn bà định đứng dậy nhường chỗ cho người đàn ông, nhưng cô chủ quán vội nắm cánh tay bà:

-        Xin bà cứ ngồi tự nhiên.

Rồi cô nhìn người đàn ông.

-        Người mà bà đi tìm và cho là đã chết đây.  Có phải ông ấy đây không?

Bà quan sát người đàn ông.  Ông ngồi thầm lặng uống từng giọt cà phê, không quan tâm đến hai người phụ nữ đang tò mò nhìn ông.

-        Bà thấy có đúng người quen của bà không, thưa bà.

Không.  Tuyệt nhiên không có một nét nào của người thanh niên cách nay ba mươi năm. Trước mặt bà là một ông lão trầm mặc, u ẩn, tóc đã bạc, da nhăn nheo và trong đôi mắt già nua ấy không thoáng một chút ánh sáng của sự sống. Không! Không phải ông ta.  Người thanh niên trong bộ quân phục màu cứt ngựa ba mươi năm trước, không! Không thể trở thành thế này, đờ đẩn, trầm mặc, còm cõi, tàn tạ.

Cuối cùng, bà dùng hết can đảm mà nhìn vào đôi mắt u buồn của người đàn ông, bà hỏi:

-        Thưa ông, nếu tôi nhầm thì xin lỗi. Ông có phải là ông Dũng.

Người đàn ông hình như không nghe gì, ông quay nhìn cô chủ quán, hình như ông muốn trả tiền cà phê, nhưng cô khoát tay:

-        Thưa ông, lâu nay không thấy đến?

Người đàn ông chớm đứng lên, nhưng lại ngồi xuống, ông nói như không phải để trả lời câu hỏi của cô.

-        Tôi đi tìm suốt một tuần nay, không biết tôi đã đánh rơi cuốn nhật ký ở đâu.

Người đàn bà giật mình choàng tĩnh, bà lắp bắp vội vã.

-        Nhật ký hả? Nhật ký hả?

Bà vội chạy ra xe…

Trong quán, người ta nghe một tiếng rít ghê rợn của một chiếc ô tô thắng gấp và tiếng hét thất thanh của người đàn bà. Cô chủ quán vội chạy ra. Cả thân hình bà nằm dưới gầm xe, cô chạy tới, một dòng máu chảy ra từ ngực bà, nhưng khi cô đến, đôi mắt bà vẫn mở và rất sáng, như một tia hy vọng đã bừng lên.

-        Trời ơi, bà có sao không?

Bà nói, giọng đứt quảng.

-        Cuốn nhật ký trong xe, cô lấy trao cho ông ấy.

Sau khi người ta khiêng người đàn bà đặt vào xe đưa đi cấp cứu, cô cầm cuốn sổ đã sần gáy quay vào quán, nhưng người đàn ông đã bỏ đi từ lúc nào.

27/5/1997 – Đà Lạt.


Wednesday, February 24, 2021

Đọc thơ: Thơ song ngữ Lê Văn Trung # English version by Vo thi Nhu Mai

 Đọc thơ: Thơ song ngữ Lê Văn Trung # English version by Vo thi Nhu Mai


https://www.youtube.com/watch?fbclid=IwAR2xzCOZAZzwucl1YCkchzLNGoYo7DihSbOUvvKb2rZvxjgkoo9n2TFiCd0&v=hd4uYyU7B1w&feature=youtu.be



Một Mai Em Có Trở Về 

Rồi có thể một ngày kia em sẽ
Khép hoàng hôn ngồi đợi cửa bên chiều
Lòng hoài nhớ một vầng trăng thiếu nữ
Giấc khuya rằm thổn thức giọt sương gieo

Về thăm lại dòng sông xưa bến cũ
Còn thầm nghe sóng vổ gọi tên người
Chim lẻ bạn nghiêng chao niềm cố xứ
Bóng người về chìm giữa bóng mây trôi

Về ngồi lại bên thềm rêu tìm đọc
Câu thơ buồn tiếc thuở phấn hương xưa
( Phấn hương nào nhòe nhoẹt dưới sương mưa
Đã giấu vội nghìn thu trong mắt biếc )

Em về lại có nghe lòng tưởng tiếc
Nắng mùa xanh lụa thắm áo xuân thì
Đừng nhe em ! Đừng ngăn dòng nước mắt
Dù muôn xuân vàng lạnh bỏ nhau đi

Người trăm năm hò hẹn có quay về
Xin nước mắt em là men rượu ngọt
Xin nước mắt em là dòng hương mật
Chảy vào đời trôi rữa sạch nguồn cơn

Tôi mở lòng tôi ngồi đợi cuối hoàng hôn.

Lê Văn Trung

 

ONE DAY WILL YOU BE BACK 

One day you will possibly be
Waiting on folding sunset by the window
Remember forever the youthful moon follow
Mid – month light sparkling the trembled dew drop

Returning to visit the old river bank and creek
Listening to the water splashing to call your name
Bird on its own tilting wings nostalgic
Your homecoming shadow and the cloud mix the same

Returning on the mossy veranda to recite
The sentimental verses regretting past embellishment
(Which embellishment smudging in the rainfall
Hiding endless autumn in your deep shining eyes)

On returning are you about to recall the past
The sunny green season the lively silky áo dài
Please don’t, precious! Don’t stop crying
Though golden springs have left each other so sad

Not sure if the forever soulmate will be back
Let your emotional tears the sweet spirits
Let your emotional tears the fragrant honey
Flow into life and wash off any sea of suffering

I open my heart to wait at nightfall

#englishversionbyvothinhumai

 

https://vietnampoetry.wordpress.com/2021/04/10/one-day-when-you-are-back-by-le-van-trung/?fbclid=IwAR2zp0zBy0t97IsN-dm2gb5INZMZfyWluEPqpUSMOGb7HxkRadyX9VpHkes



Wednesday, February 17, 2021

Truyện ngắn: Mỗi Người Là Một Nỗi Niềm Riêng - tác giả: Lê nam Phương (Lê văn Trung)

 

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT NỖI NIỀM RIÊNG

 Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)


Nàng, người con gái của hơn mươi năm trước, như một đóa hồng dại vừa nở trong một sớm mai đầy sương đỏ thắm nổi bật giữa đồng cỏ xanh biếc.  Bạn thử nghĩ xem, có gì rạng rỡ bằng, có gì xinh đẹp bằng, có gì trong trắng bằng.  Giá như cuộc đời của một con người, thời gian chỉ đọng lại ở đó, vĩnh cửu. Giá như sắc màu tươi thắm của đóa hồng kia không tàn phai. Giá như thảm cỏ kia mãi mãi rờn xanh. Giá như những giọt sương kia cứ mãi lấp lánh dưới ánh ban mai … và giá như tất cả đọng lại ở đó.


Lần đầu tiên em cảm thấy trái tim mình rung động, một nỗi niềm rung động không tên. Em chẳng hiểu vì đâu. Và em cũng không còn phải hiểu vì đâu. Từ trên hành lang tầng hai của khu nội trú, em nhìn xuống khoảng sân có trồng nhiều hoa tường vi màu hồng phấn quanh những lối đi nhỏ vòng vèo rải sỏi, em nhìn thấy anh, nhìn thấy nhiều người. Anh đi tới đi lui bắt tay chào hỏi bất cứ ai nhưng em thấy anh lấp lánh như một ánh nắng, từng bước anh đi là từng bước sáng lung linh.  Em nhìn dõi theo anh như nhìn theo từng vạc nắng. Anh là ai?  Em đâu biết!  Từ trên cao không nhìn rõ được anh.  Anh không một lần ngước lên nhìn em.  Anh không biết em đang đứng đây, tựa balcon trên tầng này, với anh em không hiện hữu. Em muốn hét lên cho anh nghe, cho anh biết đang có em, một người con gái mười tám tuổi trái tim thắt quặn lên một nỗi đau diệu kỳ, một nỗi rạo rực diệu kỳ, một nỗi sợ hãi diệu kỳ, như lần đầu em bỗng thấy một vệt máu đỏ tươi thấm qua làn vải lót. Em hoảng loạn bàng hoàng, rồi khóc, em khóc một mình, rồi sợ, em sợ một mình, rồi lo âu, em lo âu một mình. Từ đó, em xa dần lũ bạn nhỏ, em không nhảy lò cò, em không chơi thẻ. Em thường ngồi một mình, một mình ngồi nhìn vạc nắng ngoài hiên, thấy vạc nắng chập chờn, và em như người say dù em chưa biết người say như thế nào. Cái bóng nắng ấy, cái vạc nắng ấy, bây giờ ở dưới kia, bên những khóm tường vi. Em muốn kêu lên nhưng không biết kêu ai. Anh là ai?  Hỡi cái bóng nắng diệu kỳ đó. Anh không nghe được tiếng em hét vì tiếng vọng từ trái tim em chưa đủ sức vang xa.  Em đưa tay ấn mạnh vào bên trái phần ngực mình để cảm nhận một cách xót xa nhịp đập dồn ứ của con tim.


Bỗng dưng anh ngước nhìn lên.  Em giật bắn người. Vừa xây xẩm vừa hồi hộp vì quá xao xuyến.  Ánh nhìn anh như một tia nắng bỏng cháy. Em không thể quay mặt đi.  Em đứng nguyên như một tảng đá và cảm thấy cái lạnh buốt từ dưới lòng bàn chân chạy ngược lên.  Trong khi đó từ trong từng mạch máu trong cơ thể em lại cuộn lên và trào tuôn.  Em thấy anh đưa tay vẫy chào và rướn nhìn mặc dù bấy giờ mắt em đã nhòa vì cái tia nắng diệu kỳ từ phía anh. Cái nhìn ấy, tia nắng ấy đã làm em chết đi trong một giây phút ngưng đọng của thời gian. Em cảm nhận được rằng cái nhìn ấy, tia nắng ấy sẽ theo em mãi mãi, suốt cuộc đời em.


*

*     *


Khi em sinh ra thì đã không thấy cha.  Lúc đó em thường hỏi mẹ, nhưng lúc nào mẹ cũng lãng tránh không trả lời. Người ông mà em gọi bằng ông nội, mẹ nói ông thương em lắm, nhưng em lại không dám hỏi. Nhưng có một lần, năm ấy hình như em năm sáu tuổi gì đó, mẹ ôm em vào lòng, mắt mẹ rơm rớm, mẹ hôn lên trán em:

-        Ba con đi làm xa lắm.

-        Nhưng lâu quá sao ba không về hả mẹ?

Mẹ không trả lời em, nhưng có lần em nghe ông nội nói với mẹ:

-        Có tin là ngày tổng tuyển cử, ba con L. sẽ về.

Em không hiểu ngày tổng tuyển cử là cái ngày ra làm sao.  Nhưng em vẫn thắt thỏm đợi chờ. Em tưởng tượng cái ngày ấy cũng gần kề, có thể qua một đêm ngủ vùi, khi thức dậy thì cái ngày ấy đã đến. Em tưởng tượng đến người đàn ông mà em sẽ gọi bằng ba, có lẽ ông đẹp lắm, ông dễ thương lắm, nếu không sao ông nội và mẹ hay nhắc đến ông với vẻ bí mật và mang mang tỏa ra nơi gương mặt của hai người.  Mẹ chưa bao giờ nói với em ba đi đâu, vì sao phải đi xa và lâu như vậy.  Thực ra thì lúc bé em cũng hờ hững, ít quan tâm nhiều về ba.  Trong nhà, ngoài em, chỉ có ông nội và mẹ.  Ông thì nghiêm nghị, ít nói. Ông thường ở một mình nơi gian nhà trên, đọc sách.  Em chỉ gặp ông ở bữa ăn, nhưng em thường nuốt vội vàng chén cơm để chạy đi chơi với mấy đứa bạn.  Mẹ chạy ra chợ suốt ngày, tối mới về. Hình như trong nhà dù chỉ có 3 người nhưng có ba thế giới riêng. Ông thì sống với những bóng hình của quá khứ. Mỗi khi nhìn ông thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên là em có cảm tưởng ông không thuộc thế giới hiện tại này. Em không biết ông thương nhớ quá khứ hay tiếc nuối những mất mát đã qua trong cuộc đời dài gần thế kỷ của ông.  Mẹ có chút nhan sắc nhưng hình như nỗi đợi chờ vằng vặc đã làm mẹ héo úa. Mẹ bươn chảy suốt ngày trong cái thế giới hiện tại nhưng tâm hồn của mẹ vật vờ đâu ở cuối chân trời. Em không hiểu tình yêu là gì, nghĩa vợ chồng là gì, nên cũng chẳng đồng cảm xót xa với mẹ. Thậm chí lúc mẹ ôm em vào lòng và sụt sùi khóc, em cũng chỉ thấy hơi thương thương mẹ mà không hiểu sâu hơn vì đâu mà mẹ khóc. Vắng một người hay có mặt một người nữa trong nhà, em nghĩ cũng vậy thôi, chẳng có gì thay đổi.  Một người nữa đến thì cũng đến với một thế giới riêng của người đó.


Em không hiểu cô đơn là gì, và cái nỗi cô đơn có làm cho em khóc hay không, hay có khi chính sự cô đơn làm cho lòng em lắng lại và bình yên hơn.


Sau này khi càng ngày càng lớn, em thường ngồi một mình – dĩ nhiên là rất hiếm – suy nghĩ bâng quơ đủ thứ mà chẳng ra chuyện gì.  Đôi khi cũng cảm thấy trống vắng như thiếu thiếu một cái gì, rồi chẳng biết trước cái gì, thấy mất mát một cái gì rồi cũng không biết mất cái gì, thấy tiếc tiếc một cái gì rồi chẳng biết tiếc cái gì, thấy buồn buồn nhưng lại vui vui cười một mình.

*

*    *

Hình như em không còn nhỏ bé nữa. Em mười tám rồi. Nơi một ngôi trường nhỏ heo hút nằm sâu trong một làng quê, mái lá đã bị dột ướt vào mùa mưa và trời khô nắng chập chờn xuyên vô lớp học, con đường đến trường phải đi qua các con kinh lầy lội.


Hai năm trôi qua rồi từ cái ngày trời đất run rủi cho em nhìn thấy anh, cái tia nắng lấp lánh từ đôi mắt anh cho đến bây giờ vẫn còn bắn vào em một nỗi ấm áp diệu kỳ. Với em, anh hiện hữu vừa như một vật thể hữu cơ, vừa như một ảo ảnh chiêm bao, nhưng dầu ở trong trạng thái nào, anh, con người em chỉ được nhìn thấy một lần, không biết tên tuổi, vẫn chập chờn từng thời khắc trong em, khi thức cũng như khi ngủ. Nhưng với anh, chắc chắn chẳng còn nhớ gì đến em, chẳng còn nhớ gì cái buổi sáng định mệnh cho em nhìn thấy anh. Anh không nhớ gì, cho dù, trong cái buổi sáng kỳ diệu đó anh đã ngước mắt nhìn em và vẫy chào. Cho dù em biết cái vẫy chào ấy là phong cách lịch thiệp của một bậc hào hoa, anh nhìn em, anh vẫy tay với em, đơn giản cũng như với bao cô gái khác, rồi anh quên, anh chẳng bận tâm. Mà anh chẳng bận tâm một chút gì cũng đúng thôi. Anh và nhóm bạn anh ở dưới sân đang chờ ngày vào quân trường. Thời chiến mà! Em ghét cay ghét đắng chiến tranh.  Rồi anh sẽ ra đi như những chiến binh. Sống chết không lường. Anh cũng phải bắn giết.  Anh cũng phải băng mình lội suối. Rồi trong suốt hành trình của đời lính anh chẳng bao giờ mang theo hình bóng em. Anh có biết em là ai đâu. Cái nhìn của anh, cái vẫy tay của anh chẳng lưu dấu bóng hình em. Anh không có em trong anh. Nhưng anh đi, em mãi dõi theo anh, cho dù chân trời góc biển.

*

*     *

Ông nội đã mất gần hai năm nay, ông ra đi mang theo cái hy vọng ngày tổng tuyển cử, nhưng mẹ vẫn thắt thỏm đợi chờ. Bây giờ em đi xa, mẹ ở nhà một mình, một mình với nỗi đợi chờ vô vọng làm héo úa từ linh hồn đến thể xác bà.  Không hề có một mẫu tin nào nhỏ nhoi về người cha của em. Em cũng đợi chờ, nhưng không đợi chờ như mẹ, em đợi chờ vì sự tò mò.  Người đàn ông mà em sẽ gọi bằng ba ấy ra sao. Bây giờ thì em đã hiểu ông đi đâu, đi từ lúc nào, bởi khi em lớn khôn mẹ đã không còn giấu diếm.  Em chỉ thắc mắc có một điều là, em, mẹ em, bà con xóm giềng vẫn sống, vẫn bình an, vẫn được hưởng những nhu cầu là một người dân bình thường có quyền được hưởng, vậy thì tại sao, ba, những người nào đó lại phải vất vã, chịu gian khổ để gọi là giành lại tự do cơm no áo ấm cho chúng em. Em thấy mình chẳng thiếu gì, được nuôi nấng dạy dỗ ăn học đầy đủ.  Em chỉ thiếu duy nhất một điều:  Đó là anh.  Hay ông trời ổng cũng công bằng: Không ai có đủ tất cả, ít nhất phải thiếu một cái gì. Nhưng cho dù ba có gian nan vất vã, ba cũng không thể nào mang anh đến cho em.


Có những con người khi sinh ra ở đời họ tự nhận mình có một nghĩa vụ cao cả nào đó, tự dán cho mình phải gánh vác lấy trọng trách bảo vệ và giáo dục dân chúng, họ thấy họ vĩ đại, họ phải là anh hùng, họ phát động những cuộc chiến tranh đẫm máu. Tất cả những việc họ làm, ở điểm nào đó mang một góc độ sâu sắc và chân thật, nhằm thỏa mãn lòng kiêu ngạo và ảo tưởng về tính siêu việt trong con người họ. Họ có hiểu chăng một tình yêu vô bờ từ trái tim người mẹ, người vợ, họ có hiểu chăng niềm cô đơn và nỗi khát khao một hạnh phúc bình thường, giản dị. Có thể những người như ba em, đôi khi cảm thấy mình cũng chẳng lớn lao vĩ đại gì, nhưng vì bị tác động quá mạnh bởi những học thuyết, bị ru ngủ bởi những cám dỗ, bị lôi kéo bởi những tham vọng như một Hitler chẳng hạn. Hoang tưởng và kiêu ngạo.


-        Hôm nay là ngày giỗ ông nội của cháu.


Chị chủ nhà nói khi em đang sữa soạn đến trường.


-        Cô vui lòng thu xếp về sớm sớm để dùng cơm với gia đình cho vui.


Em thấy nét mặt chị có vẽ rạng rỡ, khác với vẽ buồn buồn lam lũ thường ngày.


-        Ba cháu có mời mấy người từ chiến khu về nữa.  Chị nhìn em nói tiếp.

-        Vâng, em sẽ thu xếp về để cùng chị nấu nướng.


Ông bố chồng của chị, hồi năm ngoái, đã bị giết trên đường từ ngoài ruộng về khoảng nhá nhem tối.  Những người thực hiện vụ mưu sát đã để lại bên xác ông cụ một mảnh giấy có ghi mấy dòng: “Ai làm tay sai cho địch thì hãy xem cái gương này”.


Tôi gặng hỏi chị:


-        Ông cụ làm gì mà chết thảm như vậy?


Chị vo tròn đôi mắt nhìn tôi, như vẫn còn tỏa ra nỗi bi hài của sự việc.


-        Cô biết ông nội cháu làm đến chức gì không? Liên gia trưởng cô à! Đến lúc chết thật chẳng biết đâu vào đâu.


Chị kể là anh im lặng mang xác cha về chôn, đôi mắt lầm lầm lì lì, không khóc một tiếng, không nói với ai câu nào. Ba ngày sau mở cửa mã, anh tình nguyện đi nghĩa quân, để lại đất đai ruộng vườn cho chị.


-        Hình như anh biết ai đã giết cha mình.  Chị không biết anh toan tính gì trong đầu.


*

*      * 

Hôm nay tròn đúng hai năm kể từ ngày em nhìn thấy anh dưới khoảng sân có trồng mấy cụm tường vi màu hồng phấn và những lối đi rải sỏi trắng. Từ trên tầng hai khu nội trú, em, cô gái mười tám tuổi, bàng hoàng, ngộp thở bởi cái nhìn của anh như một tia nắng.


Hai năm trôi qua, không lúc nào mà cái tia nắng diệu kỳ đó không lung linh trong em. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi em thức cũng như khi em ngủ, khi em đi dạo cũng như khi em ở lớp học.  Có lần mẹ em nhận ra cái vẻ thẩn thờ của em, bà nói:


-        Này con, coi bộ si tình chàng trai nào rồi phải không?


Em giả bộ dỗi hờn mẹ.

Nhưng mà em có si tình anh đâu. Em có biết anh là ai đâu. Em chỉ bị ám ảnh bởi cái vẻ sáng diệu kỳ tỏa ra từ anh, từ đôi mắt anh. Em nào dám hỏi ai về anh, em xấu hổ và kiêu ngạo. Em không muốn ai biết một tí gì về những xao động trong lòng em.  Dù em có biết một vài người trong số bạn của anh, nhưng họ cũng rất xa lạ, em không muốn, em chỉ biết duy nhất một mình em, một cô gái mười tám tuổi, lần đầu tiên nghe tim mình quặn lên niềm đau diệu kỳ, niềm đau làm cho ta ngây ngất, làm cho ta vừa xốn xang hạnh phúc, vừa ray rức êm đềm, nhưng tuyệt nhiên không có một điềm báo gì về một nỗi bất hạnh.


Lần đầu tiên gặp ba như thế nào, em không biết, nhưng mỗi khi nhìn mẹ ngồi lặng im bên bậc thềm, mắt hướng về một cõi nào xa lắc, em nghĩ nỗi thương nhớ trong đợi chờ của mẹ nó dữ dội lắm. Và chắc chắn em không giống mẹ.  Mẹ ba là tình nghĩa phu thê, là vợ chồng, máu thịt của họ đã hòa vào nhau, tâm hồn của họ đã tan vào nhau. Còn em với anh, hai con người không hề quen biết, chúng ta không là của nhau, và có thể chẳng bao giờ là của nhau.  Em không như mẹ, mẹ chờ đợi ba mõi mòn, em chẳng chờ đợi anh, không chút hy vọng gần anh. Với em, anh chỉ là tia nắng, cái tia nắng rọi vào em cho đến bây giờ vẫn còn lung linh.


Vâng, hai năm đã trôi qua, nghe đâu anh và bạn bè đã vào quân trường từ dạo đó.  Em không hình dung được anh-người-lính ra làm sao. Em ghét chiến tranh.  Tại sao người ta phải chém giết nhau. Không biết anh có muốn giết ai không, cho dù đó là kẻ giương súng bắn anh? Em không muốn tin rằng anh sẽ làm được cái điều kinh khủng đó.  Nhưng phải làm sao để kẻ khác không nhắm vào anh mà nổ súng. Ôi cái học thuyết nào có thể dẫn dắt loài người thoát khỏi cái họa chiến tranh.


*

*     * 

Em đang sửa soạn cho học trò nghĩ sớm một chút để kịp về phụ với chị chủ nhà, nhưng bỗng dưng một loạt đạn nổ xé trời làm em giật bắn mình và lủ học trò la lên í ới.  Không chờ em cho phép, chúng vụt chạy ào ra cửa, đứa nọ xô đẩy đứa kia. Khi em đã hoàn hồn lại thì lớp học đã vắng ngắt. Em vội ôm cái cặp ba chân bốn cẳng chạy về nhà trọ. Vừa đến cổng, một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt: Một chiếc xe jeep nhà binh lật nằm nghiêng bên mương nước trước nhà, người tài xế gục đầu vào vô lăng, hai tay vẫn chưa buông tay lái, máu từ ngực anh còn chảy xuống sàn xe. Trong sân, chị chủ nhà đang ôm một ông quân nhân, ngồi gục đầu khóc ngất. Thằng cu con chị đứng sững nhìn mẹ, nó đang không biết chuyện gì vừa xảy ra và không biết làm gì. Thấy em vào nó chạy nhào tới ôm chân em khóc òa. Nó chỉ nơi góc sân một người lính đang ôm cái chân toe thịt đỏ lòm rên rỉ. Em vụt chạy đến.  Người sĩ quan mang quân hàm thiếu úy ấy đang nhắm nghiền mắt nhăn nhó vì đau đớn.


-        Tôi phải làm gì đây anh ơi! Em lay vai anh ta và gọi.


Anh mở mắt nhìn em.  Dù đau đớn nhưng cái ánh nhìn đó rọi vào em như một tia nắng.  Em, trong giây phút bàng hoàng nhắm mắt lại, rồi mở ra.  Anh ta đã nhắm nghiền mắt lại.  Chỉ có đôi môi đỏ như môi con gái của anh đang mấp máy.  Em kê tai sát vào.  Sau khi đã cố nghe và cố hiểu anh nói gì, em vội chạy ra xe đang bị lật, chui vào xe ì ạch tìm kiếm, cuối cùng em cũng mang ra được một khối kim loại nặng nề có dây nhợ tùm lum.  Khi đã mang được vào cho anh, em mới biết đó là cái máy liên lạc vô tuyến.  Anh đang loay hoay xé cái áo trong và bảo em lấy quấn vào phần đùi trái nơi máu đang chảy ra đỏ thắm và tươi rói. Trong lúc em băng bó cho anh thì anh nói gì đó vào máy. Xong, anh nhìn em và nói cám ơn. Lại với ánh nhìn đó. Cái nhìn dù trong cơn đau đớn vẫn rọi vào em như một tia nắng ấp áp lạ thường. Em chạy đến người phụ nữa đang ôm người lính, chị nhìn em và khóc dữ dội:


-        Ảnh chết rồi, anh ơi đừng chết anh ơi, đừng bỏ em với con một mình!


Em lặng người. Trời ơi, chồng chị đấy. Ngày giỗ cha chưa kịp thắp nhang lên bàn thờ. Máu nơi vết thương trên đầu anh thấm ướt áo chị. Thằng bé chừng đã hiểu cái tai họa vừa giáng xuống, nó ôm cái đầu ba nó, gục cái mặt non thơ của nó vào, nó khóc không thành tiếng. Em loay hoay vụng về, vừa sợ vừa quá xúc động, em ôm thằng bé, nó ngước nhìn em, khuôn mặt trẻ thơ vấy đầy máu đỏ từ vết thương của ba nó. Em mang đến cho người sĩ quan một cốc nước và nâng đầu anh dậy để anh uống từng ngụm.  Anh mở mắt nhìn em tỏ vẻ biết ơn.  Lại cái tia nhìn kỳ diệu đó.


Tiếng động cơ ô tô vang ầm ầm trước lộ, em ngước mắt nhìn ra, nét mặt anh thoáng vui, anh nói mõi mệt rời rạc:


-        Các bạn tôi đã đến.


Quả nhiên một đám lính đông đến vài ba chục người, tay lăm lăm súng, phân thành hai ngã chạy vây quanh khu vườn nhỏ.  Hai người lính cáng anh trên một cái băng ca vội vàng chạy lúp xúp ra lộ. Họ khiêng luôn người tài xế và anh chồng chị chủ nhà ra xe, chị bấu theo khóc lóc thảm thương. Họ bỏ chị và cháu nhỏ lên xe, rồi cả toán lính rút đi để lại cái im lặng ghê người nơi căn nhà đang bừa bộn nồi niêu chén bát thịt cá.


Em đóng cửa lại ngồi khóc một mình. Sao bỏ em một mình thế này.


Một loạt đạn.  Hai người chết. Một người bị thương.  Thêm một góa phụ. Một đứa bé mồ côi cha.


Thế đó! Chiến tranh!


Họ giết nhau vì cái gì nhỉ? Em chẳng hiểu gì cả.


Người sĩ quan ấy là ai? Em cứ cố tin rằng đó là anh. Cái tia nhìn của ánh mắt ấy sao giống anh quá và còn hơn thế nữa, nó cũng làm em chói lòa và run lên vì xúc động. Em để lại cho chị chủ nhà mấy dòng, vơ vội áo quần nhét vào cái túi nhỏ, khóa cửa gửi cho hàng xóm và ra lộ đón xe về nhà.  Mẹ chắc cũng mong em, bà chỉ một mình.

*

*     *

Sau đó người thiếu nữ có đi tìm viên sĩ quan trẻ tuổi bị thương kia. Nhưng tuyệt nhiên cũng không lần mò ra được. Bởi cô không biết một tí gì về anh, tên tuổi cũng không, không biết số quân, đơn vị. Hỏi chỗ nào người ta cũng lắc đầu và bảo cô về quân y viện hỏi. Cô đến quân y viện hỏi đôi ba lần, không ai trả lời rõ được cho cô. Cô đi từng phòng thương binh đang nằm điều trị xin lỗi nhìn từng người. Không có. Sau cùng người ta bảo có thể anh ta đã được đưa ra hạm đội.  Cô chẳng biết hạm đội là nơi đâu và vì sao những người thương binh đó lại được đưa đi xa vậy.  Cô không buồn. Cũng không đau khổ. Cô chỉ đi tìm cái ánh mắt có tia nhìn rọi vào cô như một ánh nắng và lòng cô ấm lại mỗi lần nhận được cái ánh sáng ấy.


*

*     *


Kẻ viết lại truyện này đang ngồi trước mặt cô và nghe cô kể câu chuyện nhỏ về cô gần hai mươi năm về trước.


Bây giờ cô đã là một thiếu phụ ở cái tuổi trên dưới bốn mươi, không chút hương sắc tàn phai, vẫn còn phảng phất một vẻ đẹp thầm lặng, cái vẻ đẹp chỉ có ở những phụ nữ sống trọn với nỗi đợi chờ, tìm kiếm một cái gì đó xa xôi mờ nhạt mà đẹp vô cùng.


New Viet Art

Lê Nam Phương

24. 7. 2011


Nhớ màu hoa cũ

NHỚ MÀU HOA CŨ   Rất lẻ loi một đóa hoa vàng Nở muộn bên đường chiều đang sương Có người chợt nhớ mùa thu trước Hoa cài lên tóc còn ươm h...