Sunday, December 12, 2021

Truyện: Hồi ký: Phải chăng một câu chuyện tình thời Remarque - Lê Văn Trung

  PHẢI CHĂNG MỘT CÂU CHUYỆN TÌNH THỜI REMARQUE 

-Lê Văn Trung-


1- Giữa những năm 1968 – 1969, do một cơ duyên nào đó, chúng tôi đã gặp nhau tại một thành phố nhỏ duyên hải miền Trung: thành phố Qui Nhơn. Rồi cũng không hiểu từ một nguồn mạch nào, chúng tôi lại gắn kết với nhau như anh em. Dù chẳng ai nói với ai một lời, mà sao những tấm lòng, những tâm hồn, những suy nghĩ đều cùng một dòng chảy giữa một quê hương chiến tranh tàn phá những ngày từng giờ. Kẻ mặc áo nhà binh. Người còn đang khoác áo thư sinh. Kẻ đào ngũ. Người trốn lính. Đứa theo Việt Cộng. Đứa phía Quốc Gia…Hoàn cảnh đời sống khác nhau, môi trường xã hội khác nhau. Ấy vậy mà gắn kết nhau. Không thể tách rời.

Cứ thế, một căn nhà ma, với một lũ người ma, đi đi, về về, chào hỏi dăm câu, chửi thề vài tiếng. Rồi café trầm ngâm suy tưởng. Rồi chén rượu cồn cào. Súng vẫn nổ. Pháo kích. Gài mìn. Chúng tôi vẫn sống. Không người yêu. Không lý tưởng. Không định kiến. Không hận thù. Một lũ cô hồn sống vất vưởng mà trái tim luôn rực hồng. Văn chương chữ nghĩa là giấy lộn. Thế mà viết. Thế mà mực vẫn chảy từ đầu ngọn bút như máu chảy từ trong tim. Viết cho mình. Viết cho quê hương điêu tàn. Viết vì bom đạn. Và viết vì một bóng giai nhân mịt mù trong ảo ảnh.

Đấy!

Chúng tôi!

Phạm Văn Nhàn

Trần Hoài Thư

Phạm Cao Hoàng

Lê Văn Trung

Và vân vân…

Chưa hẳn là một khuôn mặt đại diện cho một thế hệ - THẾ HỆ TUỔI TRẺ THỜI CHIẾN – nhưng có lẽ những con người đang thoi thóp sống này, đang điên cuồng sống này, đang cô đơn và vô cùng tuyệt vọng này, hiện hữu giữa cái thành phố nhỏ ngập tràn quán bar, ngập tràn lính Mỹ, ngập tràn màu da, ngập tràn cave, ngập tràn wisky. Và. Ngập tràn hoang man, lo sợ, liều lĩnh, phẫn nộ.

Trần Hoài Thư là một hiện tượng.

Phạm Văn Nhàn là một tiêu biểu.

Phạm Cao Hoàng là một cõi thầm lặng.

Đấy. Những con người trong tận cùng tuyệt vọng. Vẫn sống. Và vẫn viết.

Viết là hơi thở.

Viết là hy vọng.

Viết là ảo tưởng.

Viết là muốn tự giải thoát.

Tự bức phá.

Và tự hủy diệt.

Viết trên chiếu ngủ.

Viết trong toilet.

Viết lúc ăn.

Viết khi hành quân nằm bụi nằm bờ.

Viết trong tiếng súng.

Viết với vết thương máu chảy.

Viết giữa giấc chiêm bao.

Trong cơn ác mộng.

Viết bằng nước mắt.

Bằng máu.

Viết để mơ màng huyễn hoặc về một tình yêu, về một hạnh phúc, về một nhan sắc, về những rạo rực đớn đau, về những ái ân cháy bỏng thèm khát. Chán nản và buồn nôn.

Viết về một mặt trời chợt tắt. Viết về một trái đất tan rã. Về những BI THƯƠNG TÌNH YÊU MỘT THỜI REMARQUE.
 

2- Giờ đây, trong tận cùng của đêm đen, trong tận cùng của tuyệt vọng, tôi lại nhớ về một thời đã qua, nhớ từng khuôn mặt bạn bè. Vô vàn kỷ niệm. Nhớ mãi không cùng.

Và sau đây, là một câu chuyện buồn vui trong những chuyện buồn vui.

Hồi đó, tôi vừa học vừa kiếm cơm bằng những giờ dạy tại trường tư thục. (Mong rằng sau này tôi sẽ có cơ hội viết lại quảng thời gian này để nhớ về các em, những học trò của trường Trung học tư thục Tây Sơn, Qui Nhơn). Phạm Văn Nhàn, Trần Hoài Thư, sau những ngày mịt mù trong khói súng, bòn vét dăm ba giờ dưỡng quân, lại vội vàng ngồi xe lam về phố. Có tôi và Phạm Cao Hoàng đón đợi. Rồi café, Rồi rượu. No. Đói. Đi. Về. Rồi hẹn…

Phạm Văn Nhàn là sĩ quan huấn luyện bộ binh. Anh chàng cao lêu khêu như một cây sậy tong teo. Liều lĩnh. Chịu chơi.
 

3- Một hôm, tôi đang còn giữa giờ dạy, Phạm Văn Nhàn lù lù xuất hiện ở văn phòng và báo cần gặp tôi. Tôi vừa rời lớp thì thấy anh bước đến:

- Đi Phan Thiết. Về quê tôi chơi.

- Trời! Đào ngũ hả Cha?

- Bậy! Phép mấy ngày.

Tôi đang dạy. Làm sao đây? Lại chưa có lương. Nhưng nghe nói đi là tôi náo nức. Không kìm được. Tôi gặp kế toán xin ứng lương. Gửi lớp nhờ anh bạn dạy giùm. Vậy là. Alez! Đi.

Náo nức là thế! Rạo rực là thế! Nhưng khi ngồi xe đò chạy qua những vùng quê hẻo lánh mới bắt đầu lo sợ. Xe bò từ từ theo sau toán lính đang rà mìn. Xe chạy rồng rắn tránh những chỗ toán rà mìn đánh dấu. Tài xế sơ ý là: Ầm! Văng xác! Chưa kể những tay bắn tỉa núp trong những bụi rậm xa xa. Ai có gan cùng mình cũng lạnh gáy khi nhìn hai bên đường xác những chiếc xe đò, xe nhà binh, nằm chóng chơ cháy sạm. Và lẩn quất bao nhiêu oan hồn.

Vào tới Phan Rang thì không thể đi tiếp. Đang có giao tranh. Đường bị tắt. 

Dừng lại ở Phan Rang. Tôi và Phạm Văn Nhàn vào tòa hành chánh tỉnh, xuất trình thẻ nhà báo và xin hổ trợ phương tiện máy bay đi Phan Thiết. Tùy viên Tỉnh Trưởng thông báo phải cả tuần nữa mới có chuyến C123 hay trực thăng gì đó. Vậy là thua!

Chúng tôi được bố trí qua đêm tại tư thất của viên trưởng ty cảnh sát.

May mắn tôi gặp người bạn đồng hương Quảng Nam, nhà thơ Nguyễn Tịnh Đông, anh đang theo đoàn công tác Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, đang đóng trại ở biển Ninh Chữ. Anh đưa tôi và Phạm Văn Nhàn về Ninh Chữ chơi. Và cũng như các bạn trong đoàn, chúng tôi mì tôm qua bữa.

Đêm đó, tôi và Phạm Văn Nhàn lang thang phố xá Phan Rang vắng vẻ tìm café. Và đây, café Diễm, có cô Diễm ngồi nơi quầy thâu tiền đẹp tuyệt trần, không bao giờ cười. (Không bao giờ cười là một bí mật của vẻ đẹp cô).

Ở lại Phan Rang được vài hôm. Cạn tiền. Tiền café thì có mà tiền cơm thì không. Còn phải trở về Qui Nhơn nữa chứ.

Thế đấy.

Rồi bỗng nhiên thiên thần hộ mệnh xuất hiện.

Một đêm lang thang từ quán café Diễm về nơi nghỉ trên đường Thống Nhất (không biết bây giờ đổi tên là đường gì), bỗng nghe tiếng một phụ nữ gọi thảng thốt:

- Anh Nhàn! Anh Nhàn!

Tôi mơ hồ như nghe tiếng vọng của một thiên thần cứu rỗi.

Trời! Giữa cái thành phố thời chiến xa lạ này lại có người quen thân sao!

Tôi và Phạm Văn Nhàn dừng lại. Một phụ nữ đang bế con đứng bên đường trước nhà. Trong ánh sáng vàng vọt của đèn đường, tôi thoáng nhìn chị, chị còn rất trẻ và xinh đẹp.

Sau phút ngỡ ngàng, Nhàn kêu lên:

- Trời ơi! KV!

Trong đầu tôi thì kêu lên: Trời ơi thần hộ mệnh!

Thế là họ gặp nhau. Tôi không rõ quan hệ giữa họ với nhau thế nào? Bạn cũ? Tình nhân? Thôi kệ.

Nàng mời chúng tôi vào nhà. Sau vài phút trao đổi, biết nàng có chồng có con. Chồng nàng pilot. Đêm nay đang thực hiện một chuyến bay đêm. Hình như L19.

Tôi lịch sự không để ý đến câu chuyện của hai người. Xin phép ra trước hiên đốt thuốc. Tôi mỉm cười. Biết đâu hai người đã là tình nhân của nhau. Đẹp thật. Mà đau thật. Gặp lại chi giữa buổi chiến chinh này.

Thành phố đã tới giờ giới nghiêm. Chúng tôi chia tay.

Trên đường về, Phạm Văn Nhàn chỉ buông một câu nghe não nuột:

- Thì ra nàng đã lấy chồng.

Tôi mơ hồ về một mối tình nào đó, đã trôi xa, trong chiến tranh quên lãng. Bây giờ trời lại bắt họ gặp nhau. Để làm gì! Không biết!

 

4- Sáng hôm sau tôi và bạn tôi đến bến xe Phan Rang để về lại Qui Nhơn. Và một ngạc nhiên rất xúc động. KV đang ở đó co ro trong chiếc áo choàng vì cái lạnh buổi sớm sương. Nàng đòi tiễn chúng tôi về tận Nha Trang. Nhưng chúng tôi rất ái ngại cho nàng. Nàng đưa hai tấm vé xe cho Nhàn và một phong thư.

Chúng tôi đứng đó. Lặng im. Buồn não lòng. Tôi biết bạn tôi còn buồn gấp vạn lần.

Xe khởi hành. Chúng tôi chia tay. Nàng đứng ủ rũ trong cái lạnh sắt se trên bến xe. Lòng tôi thì nao nao trăm ngàn nỗi. Không biết bạn tôi đang nghĩ gì. Không biết KV đang thế nào. Im lặng. Trầm buồn.

 

5- Mà chao ôi! Sao tôi lại kể câu chuyện này ra đây!

Một câu chuyện tôi chẳng biết quá khứ.

Không rõ hiện tại.

Và tương lai thì mịt mù.

Không! Cho dù là một câu chuyện có thật trăm phần trăm, tôi vẫn mơ hồ nghe đâu đó trong muôn ngàn câu CHUYỆN TÌNH YÊU THỜI CHIẾN của Remarque.

 

Lê Văn Trung

Saturday, December 11, 2021

Thơ Đạo 7

 Có-không - Kính tặng Thiền Sư - Ơn đất trời vô lượng - Sá gì đâu - Thôi trở về hò hẹn với trăng sao - Trọn nghĩa tang thương - Về đi em

CÓ - KHÔNG
Ta rằng CÓ Người rằng KHÔNG
Tìm nhau tìm giữa mênh mông cõi người
Kẻ đi ngược Người về xuôi
Mà đem dâu biển hẹn lời trước sau
Rồi khi mây trắng ngang đầu
Mới hay thiên địa một màu SẮC-KHÔNG.
Lê Văn Trung

Kính tặng Thiền Sư
Thiền lữ phiêu du cõi thế gian
Người đi tâm tịnh giữa ba ngàn
Núi lỡ non mòn khai liễu ngộ
Mây trôi bèo giạt ẩn huyền trang
 
Minh giác giọt hoàn nguyên tỏa rộ
Lòng từ chuyển vạn nẻo thênh thang
Ai hay từ độ sen vừa nở
Người trở về soi ánh đạo vàng!
Lê Văn Trung

ƠN ĐẤT TRỜI VÔ LƯỢNG
Suối với khe vẫn trọn niềm chung thủy
Mà sông ơi có chảy ngược về nguồn
Vượt ghềnh thác qua núi cao rừng thẳm
Khe suối nguyện lòng gom nước về sông
 
Những lối nhỏ đường mòn đâu phải là không thể
Dẫn đưa về CON ĐƯỜNG LỚN thênh thang
Mỗi vì sao lẻ loi từng đóm sáng
Vẫn long lanh giữa trời đất vô cùng
 
Rất dung dị những hoa đồng cỏ nội
Mãi tỏa hương khoe sắc đẹp cho đời
Và ong bướm hòa trong màu lễ hội
Hiến dâng người trọn vẹn vạn niềm vui
 
Lá sẽ rụng cho chồi non búp nõn
Tiếp ơn đời xanh biếc cuộc tồn sinh
Thuyền vẫn dong buồm giữa trùng trùng biển sóng
Triệu con đường đều dẫn tới VÔ BIÊN.
Lê Văn Trung

SÁ GÌ ĐÂU 
Sá gì đâu cuộc trăm năm
Từng sát na cũng vô cùng bể dâu
Sá gì đâu chuyện nông sâu
Biển sông từ độ nhuốm màu tang thương
Sá gì đâu những dặm trường
Áo phai từ buổi nỗi buồn chưa nguôi
Sá gì em sá gì tôi
Thế gian là một tiếng cười lệ đau.
Lê Văn Trung

THÔI TRỞ VỀ HÒ HẸN VỚI TRĂNG SAO
Đời rạng rỡ đêm trần gian mở hội
Tôi trở về hò hẹn với trăng sao
Tôi sẽ về tận những đỉnh non cao
Cùng mây trắng, cùng sương ngàn, suối biếc
 
Tôi réo gọi hồn tôi từ muôn kiếp
Từ mênh mang diệu vợi đến vô cùng
Trong bất tận giữa đất trời diễm tuyệt
Tôi sẽ về mầu nhiệm cõi vô chung
 
Tôi sẽ về nghe gió nhạc mênh mông
Nghe tiếng gọi thiên thu lời vi diệu
Tôi đã đắm bao dòng sông mộng tưởng
(Ôi dòng sông một thuở tóc hoang đường!)
 
Tôi sẽ bay cùng mây trắng ngàn phương
(Mây từ độ vô cùng bay vô định)
Tôi sẽ thắp lửa chiều xanh tịch lặng
Soi lòng mình xin ấm lại màu trăng
 
Đốt nốt bài thơ viết giữa cơn mơ
Gửi lại đây đêm trần gian mở hội
Ai có nghe lời kinh chiều cứu rỗi
Tôi trở về tĩnh lặng dưới trăng sao.
Lê Văn Trung

TRỌN NGHĨA TANG THƯƠNG
Trời chiều đuổi nắng chênh nghiêng
Trôi theo bóng ngã bên triền
Tình xưa nhạt nhàu nếp áo
Huyền bay chập choạng qua hiên
 
Cuồng lưu lở bồi cạn kiệt
Mù sương nhân ảnh liêu xiêu
Nổi chìm bơ vơ hương lửa
Thiên đường vỡ mộng đìu hiu!
 
Quê nhà đánh rơi hạt bụi
Ngậm ngùi thơ gợi nhớ quên
Gầy hao nẽo về cô tịch
Hôn hoàng bút mực lênh đênh
 
Bước chân đậm màu thiên cổ
Còn gì vạn nẽo phù sinh!
Trăm năm cốc vàng tri ngộ
Chợ đời Bát Nhã vô thinh!
Lê văn Trung

Về đi em!
 
Về đi em! Về đi thôi!
Nhìn mây thiên cổ cuối trời còn bay
Rồi khi tàn cuộc chơi này
Chỉ là hạt bụi tan ngoài vô biên
 
Về đi thôi! Về nghe em!
Bỏ trần gian lại dặm nghìn phù vân
Bỏ tình bỏ bạn tri âm
Bỏ tôi ngồi giữa trăm năm cõi người
 
Về đi em mà lắng nghe
Tận trong tịch lặng bài thơ cuối cùng
Về đi em dù một lần
Là thiên thu gửi trong phần mộ tôi
 
Mai kia góc biển chân trời
Câu kinh tiếng mõ thay lời tiễn đưa
Lê Văn Trung








Wednesday, December 8, 2021

Lâm Lê Khánh Hảo đọc thơ Lê Văn Trung

 

Lâm Lê Khánh Hảo đọc thơ Lê Văn Trung

 

https://www.youtube.com/watch?v=FtQ8GyaWKAo

Đọc Thơ Lê Văn Trung


https://www.youtube.com/watch?v=Azs0oVuITNE&t=85s

[Trích] Gọi tên người yêu dấu | Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

https://www.youtube.com/watch?v=TDqJ6XkywLQ

Mùa Thu Hoang Đường | thơ Lê Văn Trung


Friday, November 19, 2021

Bình thơ: Biệt Khúc của Lê Văn Trung - Đặng Toản


Đọc Biệt Khúc của Lê Văn Trung 

Đặng Toản (thi sĩ Bích Thượng Thổ)

 

Anh Lê Văn Trung là một người đồng hương hơn tôi 13 tuổi. Nói rằng hơn 13 tuổi chưa thực sự chính xác phải nói anh là người sống trước tôi một thế hệ. Người thầy dạy Anh văn của tôi (cũng là chủ nhiệm lớp 9 TQT/QN niên khóa 1974/1975 là thầy Doãn Lê bây giờ đang ở Hội An cũng chỉ hơn tôi 10 tuổi). Và tôi đoán không lầm anh LVT cũng làm thầy giáo.


Nhờ duyên văn nghệ, thơ phú mà được hân hạnh quen biết nhau qua trang FB và có khi thỉnh thoảng được góp bài chung trong cùng một số của Thư Quán Bản Thảo. Mỗi lần như thế tôi lại thấy lòng lâng lâng vì chỉ với một bài thơ mà mình, kẻ hậu bối được xếp ngồi chung chiếu với những người trưởng thượng. 

Tuy nhiên càng bất ngờ hơn khi tháng 10/2020 vừa qua, một hôm buổi chiều đi làm về tôi nghe điện thoại reo khi đang lái xe. Chú Phạm Văn Nhàn gọi nhắn lại nhà lấy tập thơ biếu. Lúc ấy tôi vẫn đinh ninh là chắc thơ của hải ngoại, vì chú Nhàn và chú Thư cũng hay in thơ cho các tác giả quen biết, kể cả người viết mới nổi lên ở bên này.


Tôi cầm tập thơ Biệt khúc trên tay mà lòng xúc động đến rưng rưng vì anh LVT dù ở xa nửa vòng trái đất, bằng những phương tiện hạn hẹp của đời sống anh vẫn nhớ đến tôi, một đứa em làm thơ nghiệp dư nhỏ nhít này. Biệt Khúc cùa anh LVT viết không biết lúc nào nhưng được ra đời vào năm 2020 lúc này Việt Nam đang vào giai đoạn đầu của nạn dịch Covid 19 mà mọi người còn gọi là Corona Vũ Hán. Lúc bấy giờ VN chủ trương cách ly và thực hiện khá thành công nên rất ít ca nhiễm và cũng rất ít người chết.


Thi phẩm Biệt Khúc gồm 200 trang khổ 20x14 rất vừa cầm trên tay, nhẹ nhàng khi nằm xem. Đọc thơ tôi rất thích nằm để đọc, nhiều khi say mê quá nhưng do vì làm nhiều công việc khác của đời sống tôi nằm xem đến khi thiếp đi, tập thơ rơi tuột xuống và ngủ quên luôn. Cho nên nếu không vì lý do gì đặc biệt những tập thơ nên in vừa phải, hay mỏng để nằm xem. Tư thế nằm là tư thế thư giản nhất để mình có thể cảm thụ chất thơ từ những bài thơ,  tuy nhiên đây chỉ là ý kiến cá nhân, không chắc đúng với mọi người.


Biệt Khúc gồm có 102 bài thơ dài ngắn và trung bình đủ cỡ, viết bằng nhiều thể loại nhưng thể hiện nhiều nhất là thơ thất ngôn (bảy chữ).


Biệt khúc, ôi cái tên như một điềm báo chẳng lành, càng nghiệm sâu vào tựa đề tập thơ tôi cảm thấy buồn và lạnh. Đọc tới đọc lui mà chưa dám viết lời bình. Nhất là trong giai đoạn ấy tôi phải học bài để thi quốc tịch Hoa Kỳ (qua Mỹ 18 năm mới thi quốc tịch bằng tiếng Việt với một thông dịch viên người Việt giúp, anh này đã định cư đã 35 năm, nói ra hơi xấu hổ chút).


Biệt khúc là gọi tắt của khúc ca biệt ly.
Biệt ly ít nhất có mang hai nghĩa:

a- tuyệt đối: đồng nghĩa với cái chết.
b- tương đối: là sự chia ly, chia tay, chia cách. 

Trong những cuộc chia ly nơi cuộc sống này, hình ảnh chia ly hay được nhắc đến ở một sân ga, phi trường, một quán vắng v…v. và trong chúng ta bất cứ người nào cũng từng là sân ga, cũng từng đóng vai con tàu, có khi chia ly cũng được mô tả bằng một dòng nước, vài cánh bèo trôi lạc dựa một chân cầu và một vài đợt sóng: Thôi đành trả lại xưa sau – Dòng tôi sóng chạm chân cầu lãng quên (Chân cầu lãng quên trang 76), ôi thân phận của con người là thế!


Ấy vậy mà cái tên Biệt Khúc này đã vận vào một người bạn thân của tác giả là anh Hạ Đình Thao, đã vĩnh viễn rời bỏ cõi trần tạm bợ này năm 2021. Anh Hạ Đình Thao (78 tuổi) cũng quen với tôi trên trang FB anh là một người hiền lành và cực kỳ dễ mến, nhưng dường như anh HĐT không qua đời vì nhiễm Covid19. Rồi đến đợt 2 lây nhiễm của biến chủng Delta vào cuối tháng 7/2021 về sau này Sài Gòn cũng thực hiện giãn cách nhưng không còn hiệu nghiệm như lần trước. Số lượng người chết tăng nhanh chưa từng có, và cả những người nghệ sỹ nổi tiếng cũng đã qua đời như ca sĩ Phi Nhung. Tôi càng lại thấy buồn và lạnh. Chợt nhớ đến một nhà văn nào đó người Tây phương đã nói: Thi sĩ là một tiên tri thấu thị (Voyage).


Mở đầu tập thơ là bài “Bài cuồng ca buồn bã” được viết với thể loại thơ thất ngôn dài 23 đoạn 4 câu (23x4 =92 câu), bài cuối là bài “Kẻ ăn mày sự thật” viết với thể loại tự do dài 2 trang (191 – 192) và kết thúc bằng một bài viết tựa đề “Tình yêu , phận người và con đường thi ca qua thơ Lê Văn Trung” bài viết này dài 8 trang của Viên Hướng có lẽ là một nhà tu hành. (Không hiểu bắt đầu từ khi nào thói quen này trong tôi hình thành là khi cầm một tập thơ trên tay tôi hay xem liền bài đầu và bài cuối, rồi lại chọn đại một bài giữa và sau đó mới đọc theo thứ lớp, vì tôi nghĩ tác giả có thể gửi gắm rất nhiều tâm sự trong những bài này).


Bài cuồng ca buồn bã, đọc kỹ cái đề thấy có một cái gì hơi vướng vướng. Vướng bởi vì cuồng thì không thể buồn bã, cuồng có thể điên, có thể loạn, có thể đập phá chứ nhứt quyết không buồn bã, buồn bã là kết quả, là thuộc tính của trớ trêu, của ngậm ngùi, của oan khiên, của bất công, của trái khoáy, của bất như ý …v…v. Cuồng có tính cách chủ động và tích cực trong khi buồn bã chỉ có tính cách thụ động và tiêu cực. Nhưng tại sao tác giả lại cố tình đặt cái tựa bài đầu tiên như một thách thức sự phê phán. Tôi nghĩ tác giả có một hậu ý rất sâu xa chứ không phải là không biết, bởi có những điều nói trong văn xuôi không được nhưng nói trong thơ được, cho nên khi đọc thơ chúng ta phải đọc qua lăng kính của thơ chứ không thể đọc theo lối đọc văn xuôi. Chính vì vậy thơ có nhiều cái đột ngột nhất, nghịch lý nhất mà cũng mang tính sáng tạo cao nhất.


Thay vì phê bình chúng ta hãy đọc một số phân đoạn trong bài 92 câu bảy chữ này:

Đất nẻ gió khô mùa hạ cháy  
Bò trâu gặm đá trọc đồi trơ
Ta nuốt tình em cho quên đói
Dòng lệ khô bầm đôi mắt thơ (khổ 4 câu thứ 2 trang 5)


Em đây có thể là một người vợ hiền, tảo tần chịu khó lặn lội cam khổ cùng chồng ra đồng, vì thấy cảnh tượng xơ xác của gò đồi, làng mạc người nông dân với phương tiện mưu sinh chỉ có đất đai và gia súc mà lâm vào hoàn cảnh như vậy thực nghẹn ngào. Người vợ hiền nếu đời sống có đầy đủ phương tiện vật chất thì cũng xinh đẹp lượt là như ai, nhưng phải theo chồng qua cảnh khổ mà vẫn thủy chung thế mới biết và thấm thía cái câu: Quân tử lúc cùng còn thẹn mặt / Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay… Em đây cũng có thể là em bé chăn trâu bò vì có câu cuối: Dòng lệ khô bầm đôi mắt thơ, đáng lẽ ra giờ này bé phải đang ngồi trong lớp nghe cô thầy giảng bài và giờ nghỉ ra chơi cùng chúng bạn mà bây giờ phải ở đây, trên khu đồi trọc này với đàn trâu bò ốm đói vì cây cỏ cũng không còn.


Thôi giận ta chi: mơ đại cuộc
Thánh nhân lạc buổi nhiễu nhương này
Rát mặt mài gươm cơn gió thốc
Giáo gươm còn sao cụt chân tay (khổ thứ 3 cùng trang 5)


Mài gươm để mong rửa một mối oan cừu nào đó trong quá khứ và mối oan cừu này không thuộc về lĩnh vực cá nhân mà chỉ vì đại cuộc mà thôi. Gươm, giáo là chuyện tưởng tượng nhớ đến ngài Đặng Dung cũng có câu mài gươm nổi tiếng câu cuối của một bài thơ khẩu khí Đường luật (Thuật Hoài): Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài. Mài gươm mà lại ra thơ ngộ chưa, mà lại là thơ hay, ở đời cũng nhiều khi có những chuyện bất ngờ như vậy.


Thôi giận ta chi chiều đã tận
Chờ nhau dẫu bỏ xác quê người
Sách vở bùng lên nguồn lửa hận
Tro tàn bay mù mịt đất trời (khổ 4 trang 6)
 

Đấy vừa nói đấy, cuồng là không thể nào buồn bã mà, đến khổ thứ tư này đã lòi ra chữ hận, mà lại hận trong (và chỉ trong) sách vở mà thôi, uất hận cháy bùng thành ngọn lửa, có lẽ là lửa đốt bằng những thanh củi ký ức và cháy bằng mồi lửa lý trí.

Có kẻ đi ngang thành quách cũ
Một màu hoang phế lạnh căm căm
Chẳng có nhang trầm xin xá tội
Đốt cành khô nhận chút thành tâm
Có kẻ lạc xiêu dăm buổi chợ
Cuồng ngâm nỗi xót nhục suy tàn
Nghe trái tim còn thoi thóp đập
Như lời đòi đoạn của trăm năm (khổ số 7 & 8 trang 6&7)


Ôi sao giống như là hận Đồ Bàn thế này, và cũng có lẽ có chút gì liên quan đến hậu Hận Đồ Bàn, cái nghèo khổ và nhục yếu đến mức thoi thóp được mô tả trong thơ vô cùng bi tráng.

Có kẻ đi quanh mồ tử sĩ
Đọc thấy tên mình trên mộ bia
Hỡi ơi những mất còn dâu biển
Chẳng lẽ đời ta lạc chốn này
Có kẻ giải buồn dăm chén rượu
Ta nay một giọt đã đắng lòng
Người xưa: “tam bôi thông đại đạo”
Mời nhau rượu đục tấm lòng trong
Có kẻ bỏ làng lên núi thẳm
Khát uống nước suối đói rau rừng
Ta bỏ đời ta không chỗ trú
Không còn một dúm đất dung thân
Có kẻ nghêu ngao ngoài góc phố
Khóc cười bất chợt hỏi vì đâu
Ta bỗng dưng thành người thất thố
Ngó lại đồi xưa mây bạc đầu
Có kẻ đêm ngày che kín mắt
Sợ nhìn rõ mặt đứa vô lương
Ta muốn giam mình trong tịch cốc
Dối lòng chẳng bận gió muôn phương
Ma quỷ lộng hành đền miếu đổ
Thánh thần xiêu lạc bãi gò hoang
Có kẻ đêm nay buồn dưới mộ
Đau từng giọt máu từng đốt xương (trang 7& 8)

Thơ tượng hình rất cao và phong phú, nhiều thành phần trong xã hội được nhắc đến như một bức tranh buồn và rất là sinh động.


Lần mò đọc thêm vào trong giữa tác phẩm có rất nhiều bài hay, nhiều câu thơ hay đến mức độ tài hoa tỷ như bài Chân Trời khát vọng (trang97) có đoạn 2 như sa: 

Ta về âm vọng hồn trăng cũ
Thuở tóc còn xanh mộng rất hồng
Để biết qua muôn ngàn dâu bể
Vẫn còn hiu hắt nỗi chờ mong

và đoạn 4 câu cuối của bài này:

Ta về lạ lẫm trăng huyền sử
Phố chợ lao xao tháng tiếp ngày
Bên đàng rộn rã chân trời mới
Đường nào nhân loại hướng tương lai

Ta thấy âm hao của bài Ta về của nhà thơ Tô Thùy Yên, ý của các phân đoạn không hề trùng với Ta về của TTY nhưng chỉ lập lại từ ta về và ý từ rất phóng khoáng xin trích thêm một vài đoạn nữa trong bài Đợi chờ đến cuối cuộc tang thương (bài này khá dài từ trang 99 đến trang 107 gồm 36 đoạn 4 câu tức 144 câu) như sau hãy đọc hai, ba đoạn 4 câu gần cuối bài để thấy nét tài hoa lộ rõ:

Ta về tay níu hoài khung cửa
Gọi xót xa từng nỗi nhớ quên
Gọi những lòng đi không trở lại
Gọi những tình xanh đã úa vàng
Ta về tay níu niềm hoang phế
Thương vách tường rêu lạnh nỗi niềm
Hỡi em nhan sắc chìm dâu bể
Hỡi ta nghìn dặm những lênh đênh


Và … Ta về tay níu nhành lan úa / thương tóc đêm rằm lộng phấn hương/ chừ biết tìm đâu hồn nhung lụa /một thuở tình mây áo nguyệt vàng.

Và đoạn kết của bài:

Ta về? ta níu ta! một bóng
Nghe gió oan khiên thổi buốt lòng
Đời nhau? Còn chỉ từng con sóng
Vỗ mãi về đâu những tiếc thương!


Thế đấy cứ không biết vỗ mãi về đâu những tiếc thương trên cuộc đời này khi mà cả ta và mọi người đều: Uống nhầm ly rượu của thiên tai (cũng là tựa đề của một bài thơ bảy chữ trang 37 và 38).


Đến đây bất giác ta tự nhủ cái tựa này là lạ bởi vì Uống nhầm, tại sao lại phải uống nhầm nhỉ? Lại còn ly rượu của thiên tai? Uống nhầm là có quyền chọn nhiều ly mà lại chọn nhầm nếu chỉ có một ly mà bắt buộc phải uống thì không gọi là nhầm nữa mà có lẽ là “nhằm “ còn ly rượu của thiên tai là sao ?

Thiên tai là một từ Hán Việt ta dịch lại là tai trời và như trong dân gian hay có một từ kép kèm theo đó là ách nước đúng vậy tác giả chơi chữ thật bí hiểm, vậy là đã rõ “tai trời ách nước”, đã là ách nước tức là ly rượu thiên tai này của cả một dân tộc phải uống, cái này là chỉ có một ly một nên từ nhầm có vẻ không hợp. Nhưng cả dân tộc phải uống nhầm chỉ có một ly rượu mà là tai trời ách nước thì có lẽ chắc có một vĩ nhân nào đó đã chọn giùm cho cả dân tộc VN này và bắt phải uống. Và vĩ nhân đó đã chọn nhầm, chứ cả dân tộc VN chỉ có nhiệm vụ uống mà không có quyền chọn.


Vấn đề đã rõ, chỉ có một cái tựa thôi đọc mà không suy gẫm thì rất uổng công người viết biết là chừng nào. Bởi hằng ngày chúng ta xem trên mạng biết bao nhiêu là bài thơ, vì nhiều quá mà phải đọc lướt hoặc đọc hết một lần đàng hoàng để rồi like nhưng đụng nhầm bài thơ có cái tựa như thế này cũng cứ cho qua thì thật là một thiếu sót lớn lao.


Tỷ như một bài lục bát: Khi về thăm lại làng xưa (trang 124).

Hai câu đầu: Ta về quẩn trước quanh sau/ Nhìn đâu cũng tiếc một màu quê hương. Ôi màu quê hương là màu gì mà sao lại tiếc nhỉ, dù không biết màu quê hương cụ thể là màu gì nhưng đã viết như thế thì phải biết là quê hương đã mất rồi! Tiếp sau bài LB ấy là bài Mùa cạn (trang 125- 126).

Có đoạn kết rất buồn trong một bài thơ đẫm buồn:

Vung tay vạch một đường sinh tử
Dẫu chết bên này hay bên kia
Ta ngồi đọc hết trang cuồng sử
Máu biển xương rừng khóc mộ bia


Ôi sao sử mà có thể gọi là cuồng được nhỉ? Người ta hay nói sử xanh, chính sử, hùng sử hay huyền sử chưa thấy một ai nói hay dám nói là cuồng sử! Có lẽ LVT là người dùng chữ cuồng sử đầu tiên chăng?


Hay có lẽ cuồng sử là sử được làm nên bởi một đám người cuồng tín về một chủ nghĩa nào chăng? Lại còn Máu biển xương rừng khóc mộ bia, khóc vì nằm xuống mà tủi thân vì không có mộ bia hay là quá nhiều mộ bia, ôi những câu hỏi lớn phát sinh trong đầu của chúng ta và máu biển là biển nào vậy? Xương rừng là rừng nào vậy? hay máu đổ nhiều như biển và xương chất đầy rừng như cây củi?  VN ta là nước nhược tiểu nên chỉ có biển đông và rừng Trường Sơn mà thôi, vậy là câu trả lời đã rõ.


Thơ Biệt Khúc được viết với tinh thần bi tráng cuồn cuộn, đây là nêu lên những ý tiêu biểu những nét mạnh nhất của tác phẩm, dĩ nhiên cũng có những câu thơ rất trữ tình ví dụ khi ta đọc bài: Mười hai bài lục bát từ trang 132 đến 138 chọn ngẫu nhiên một bài số 5 trang 134.


Ngày xa ngày đã xa rồi/ Lòng tôi mây trắng cuối trời còn bay/ em giờ bãi vắng sông dài / tình trăm năm rót có đầy ly không?/mây tôi một cõi bềnh bồng / ngàn năm bạc trắng mấy dòng bể dâu/ tấm lòng em có xưa sau / xin đem tóc bạc tạ màu thanh xuân (*)


Không thấy có một chút trách móc, giận hờn nào, thơ nhẹ nhàng và thanh thản tuy rằng đây là một vài mảnh nhỏ của sự an bình trong tác phẩm.


Nói đến Biệt Khúc khi ra mắt cuộc đời trong đợt dịch Covid 19 là nói đến sự chết tuyệt đối của cuộc chiến tranh trước đó bao nhiêu năm mà ảnh hưởng còn chưa phai nhạt và lại còn ăn theo không khí ngột ngạt của dịch bệnh của những ngày cách ly và dịch bùng đợt 2 sau tháng 7 / 2021, trong hoàn cảnh ấy không còn dòng thơ tình lãng mạn nào chảy nổi. Cũng như chúng ta tưởng tượng các con sông sẽ bốc hơi khi chảy đụng vào dòng dung nham nóng rực và sền sệt của núi lửa đang phun.


Cũng chỉ là giới thiệu đôi dòng về tác phẩm Biệt Khúc những đau thương vô bờ tràn lấp được nêu ra trong rất nhiều bài thơ những nỗi niềm ai oán không tả xiết, nhưng tựu trung tác giả là người có căn bản rất sâu xa về văn minh Đông Phương nên khái niệm “Sinh ký , tử quy” dường cũng đã ăn sâu vào tâm địa nên xin mượn một vài đoạn của bài: “Thôi khóc cười chi cuộc tử sinh” để nêu lên một điều nổi bật là tính giải thoát của tư tưởng tác giả trong tác phẩm như sau:

Ta về níu gọi cơn mơ cũ
Nghe tiếng chim kêu hạ cuối vườn
Mảnh gương ngày ấy vùi trong đất
Cùng ta soi lại dấu tang thương
Ta về tay vịn rêu bờ giếng
Thấy bóng mây mù trong đáy sâu
Bay mãi còn ta sầu đứng ngóng
Ôi mây ngày cũ bay về đâu?

…và đoạn kết

Ta về chơi cuộc cờ thương hải
Xé lụa phù hoa vá cuộc tình
Ta về vẽ bức tranh vân cẩu
Thôi khóc cười chi cuộc tử sinh


Những câu thơ đã nói thay lời kết.

Vâng! Thôi khóc cười chi cuộc tử sinh.

Xin thêm một lần được nhắc lại chính câu thơ.

 

Houston ngày 18/11/2021

Đặng Toản (thi sĩ Bích Thượng Thổ)

 

Saturday, November 13, 2021

Thơ Lê Văn Trung - Nhã Thanh phổ nhạc

 KHÔNG VỀ - Thơ Lê Văn Trung và Nhã Thanh - Nhã Thanh phổ nhạc



Nhã Thanh phổ nhạc bài thơ ĐỜI NHƯ NGỌN SÓNG



ĐỜI NHƯ NGỌN SÓNG

Thà ví đời ta như ngọn sóng
Vỗ buồn vào bờ bãi hoang vu
Còn hơn bèo bọt trôi đi mãi
Cuối cõi nhân gian vẫn mịt mù
 
Ta vỗ bờ ta nghe tiếng vọng
Tiền kiếp ta về khóc dưới trăng
Ta vỗ bờ em nghe lá rụng
Bên mộ đời ta lạnh chỗ nằm
 
Ta vỗ bờ lau bông trắng xóa
Thiên địa càn khôn cũng bạc đầu
Ta vỗ triền dâu xanh biếc lá
Thương hải còn đau chuyện bể dâu
 
Thà ví đời ta như ngọn sóng
Để biết ngàn năm chuyện lở bồi
Vỗ mãi lòng chưa tàn cơn mộng
Bao giờ bèo bọt sẽ ngừng trôi???
Lê Văn Trung

https://www.youtube.com/watch?v=AA90DkGdSPM

ĐỜI NHƯ NGỌN SÓNG - Ca Khúc Mới 2021






Lời Tình Buồn Hồn em như lá mỏng Mà tình tôi vàng phai Đã chìm trong biển động Đã rơi vào thiên tai Đời chia tình mấy nhánh Lòng chia buồn muôn phương Sông đời tôi hoạn nạn Chảy qua miền tai ương Ôi thời xanh mắt ngọc Trôi buồn như chiêm bao Ôi mùa thu biếc tóc Nằm ru tình trên vai Em bây giờ đâu đó Phai chùng áo tiểu thư Trăng úa hồn khuê nữ Mây tôi chìm trong thơ Thuở tình xanh như lá Mà vàng cả giấc mơ Thuở tình mềm như lụa Mà đau từng câu thơ Em bây giờ xa vắng Chìm trong câu kinh buồn Tôi bây chừ như sóng Đã tan vào mênh mông. Lê Văn Trung


https://www.youtube.com/watch?v=JOIlayI_VDo

PHỤC SINH THƠ - Ca Khúc Mới 2022










Monday, October 18, 2021

Thơ Lê Văn Trung - Long Phạm ngâm

Ai gửi heo may về tháng tám, thơ Lê Văn Trung - Long Phạm ngâm

https://www.youtube.com/watch?v=-hfqxRiscMM



Thơ buồn chảy một dòng trôi.Thơ Lê Văn Trung, Long Phạm ngâm 

https://www.youtube.com/watch?v=GWjC3kTJ7gY


Về ngồi lại giữa rêu phong chùa cổ, thơ Lê Văn Trung - Long Phạm ngâm

https://www.youtube.com/watch?v=x0GasmDbt_8



https://www.youtube.com/watch?v=8WvMyQs2WyI

Nỗi niềm thiên cổ thoáng mây bay, thơ Lê văn Trung - Long Phạm ngâm




https://www.youtube.com/watch?v=kkyscOCLUFg

Vô thường, thơ Lê văn Trung.



Đường cũ người xưa

  Đường Cũ Người Xưa Con đường cũ còn nguyên từng phiến đá Hàng cây xưa vẫn xanh biếc lá giao mùa Nhưng rồi có một người không trở lại Vẫn m...